Thập niên 1960 Chiến_tranh_Lạnh

Sự kiện vịnh con Lợn và cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba

Hy vọng lặp lại thành công ở GuatemalaIran năm 1961, CIA viện dẫn cuộc di tản quy mô lớn tới Hoa Kỳ sau khi Castro lên nắm quyền, đã huấn luyện và trang bị một nhóm vũ trang là người Cuba lưu vong đổ bộ xuống Vịnh con Lợn, nơi họ tìm cách tạo ra một cuộc nổi dậy chống chế độ Castro. Không quân Mỹ cũng tham gia ném bom trong sự kiện này, làm khoảng 2000 - 4000 thường dân Cuba thiệt mạng. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã thất bại nặng nề. Sau đó, Casto công khai tuyên bố ông là một người Marxist - Leninist và tạo lập Cuba trở thành nhà nước Cộng sản đầu tiên tại châu Mỹ và tiếp tục quốc hữu hoá các ngành công nghiệp chính của đất nước.

Chính phủ Liên Xô nắm lấy cơ hội từ cuộc xâm lược bất thành như một lý lẽ để thuyết phục Fidel cho phép quân đội Liên Xô đóng quân ở Cuba. Họ cũng quyết định đặt các tên lửa hạt nhân tầm trung ở Cuba, các tên lửa này đủ gần để có thể tấn công và hủy diệt lãnh thổ Hoa Kỳ. Liên Xô coi việc đặt các hệ thống tên lửa hạt nhân tại Cuba là một cách để đáp trả lại việc Mỹ bố trí các hệ thống tương tự tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Để trả đũa, Tổng thống John F. Kennedy phong tỏa biển Caribe và lên kế hoạch tấn công Cuba, cả thế giới trở nên lo sợ trước nguy cơ về một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Sau nhiều ngày căng thẳng, người Liên Xô quyết định rút tên lửa về nước, đổi lại Hoa Kỳ cam kết sẽ không xâm lược Cuba đồng thời rút các tên lửa của họ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Sau cuộc chạm trán suýt nữa đã khiến thế giới xảy ra chiến tranh hạt nhân này, hai vị lãnh đạo đã cấm các vụ thử hạt nhân trong không trung và dưới mặt nước sau năm 1962. Người Liên Xô cũng bắt đầu một chiến dịch xây dựng lại quân đội trên diện rộng. Sự rút lui đã làm ảnh hưởng tới vị trí của Khrushchev, và ông nhanh chóng bị loại bỏ sau đó và được thay thế bởi Leonid Brezhnev.

Khủng hoảng Berlin năm 1961

Mặc dù Đông Đức tăng cường canh giữ biên giới và hạn chế đi lại đối với công dân của mình, nhưng vẫn có hơn 3 triệu người Đông Đức trốn sang Tây Đức từ năm 1945 đến năm 1961, hầu hết trong số họ đi qua biên giới giữa hai thành phố Đông Berlin (Đông Đức) và Tây Berlin (Tây Đức).

Số người bỏ trốn này chiếm gần 1/5 dân số của Đông Đức khi đó, và chủ yếu là người trẻ, năng động và có học thức. Do đó việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này [43]

Tháng 6, Liên Xô bất ngờ yêu cầu quân Đồng Minh rút ra khỏi Tây Berlin [76]. Yêu cầu đã bị bác bỏ, và vào ngày 13 tháng 8, Đông Đức đã đóng cửa biên giới giữa 2 thành phố Đông và Tây Berlin đồng thời dựng lên một hàng rào dây thép gai, về sau được mở rộng thành Bức tường Berlin nhằm ngăn chặn dòng người di cư sang phía tây [77]. Bức tường đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố và chia cắt với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức, vì vậy người dân Tây Đức đã gọi nó là "Bức tường ô nhục".

Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về. Cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một thế chiến thứ 3.

Mùa xuân Praha

Bài chi tiết: Mùa xuân Praha

Khi Alexander Dubček lên nắm quyền lực ở Tiệp Khắc, ông đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm phi tập trung hóa nền kinh tế và cải cách chính trị đất nước. Các quyền tự do được trao gồm nới lỏng các hạn chế với truyền thông, ngôn luận và đi lại [78][79][80]. Dubček cũng tuyên bố rút Tiệp Khắc ra khỏi khỏi Khối hiệp ước Warszawa. Những cuộc cải cách diễn ra tại Tiệp Khắc đã không được Liên Xô ủng hộ, và một số lãnh đạo thân Liên Xô trong Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (gồm Biľak, Švestka, Kolder, Indra, và Kapek) cũng phản đối Dubček, họ đã gửi một yêu cầu tới chính phủ Liên Xô đề nghị can thiệp[81] Sau những cuộc đàm phán không thành công, Liên Xô đã gửi hàng nghìn quân của Khối hiệp ước Warszawa cùng xe tăng tấn công vào Tiệp Khắc [82] Cuộc tấn công được tiến hành theo Học thuyết Brezhnev, một chính sách buộc các quốc gia Khối Đông Âu gắn kết lợi ích quốc gia vào lợi ích của Khối như một tổng thể và thực thi quyền can thiệp của Xô viết nếu một quốc gia thuộc khối có biểu hiện đi theo tư bản chủ nghĩa.[83][84] Lãnh đạo Tiệp Khắc ra lệnh không kháng cự nên sự kiện này diễn ra ít đổ máu, nhưng cuộc tấn công dẫn tới một làn sóng di cư gồm khoảng 70.000 người Séc trong giai đoạn đầu, và tổng thể sau đó lên tới 300.000 người đã chạy sang nước khác.[85] Cuối cùng Dubček bị lật đổ và Gustáv Husák, người thay thế Dubček và cũng trở thành Chủ tịch nước, đã đảo ngược hầu hết các biện pháp cải cách tiến bộ của ông.

Sự kiện ở Praha xảy ra đã làm nhiều người cánh tả ở phương Tây có quan điểm Mác - Lenin thất vọng với Liên Xô. Nó góp phần vào sự phát triển của các ý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản Tây Âu trong các đảng cộng sản phương Tây, các đảng này tách xa khỏi Liên Xô và thi hành các đường lối đấu tranh riêng tại quốc gia của họ[86].

Chia rẽ Trung-Xô

Bài chi tiết: Chia rẽ Trung-Xô

Cuộc Đại nhảy vọt của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và các chính sách dựa trên nông nghiệp thay vì công nghiệp nặng của nước này thách thức mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên xô và những dấu hiệu của ảnh hưởng Xô viết lên các nước Xã hội chủ nghĩa. Khi quá trình "phi Stalin hoá" diễn ra ở Liên xô, nhà sáng lập cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông, lên án "chủ nghĩa xét lại" của Liên xô. Người Trung Quốc cùng dẫn bất đồng với việc luôn chỉ có vai trò thứ hai trong thế giới cộng sản. Trong thập niên 1960, một sự chia rẽ công khai xuất hiện giữa hai cường quốc; những căng thẳng đã dẫn tới một loạt các cuộc xung đột dọc theo biên giới Trung-Xô.

Mỹ Latinh

Mỹ ủng hộ cuộc đảo chinh lật đổ Tổng thống João Goulart tại Brazil và lập lên một chính phủ thân Mỹ tại đây.

Năm 1965, Mỹ đưa quân vào Dominica để tấn công Đảng Cách mạng DominicanĐảng Cách mạng 14 tháng 6 khi hai đảng cánh tả này đang tổ chức biểu tình chống chính quyền quân sự thân Mỹ.

Từ năm 1962, Mỹ can thiệp vào cuộc Nội chiến Guatemala bằng việc hỗ trợ chính phủ độc tài quân sự của nước này chống lại các lực lượng nổi dậy cánh tả. Các nhóm nổi dậy này về sau đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ CubaNicaragua. Cuộc nội chiến đã kéo dài hàng chục năm, gây nên những tổn thất to lớn cho đất nước Guatemala. Có ít nhất 200.000 người đã bị giết trong cuộc nội chiến, phần lớn là thường dân. Đỉnh điểm của cuộc chiến là chiến dịch diệt chủng ở Ixil của tổng thống Rios Montt.

Châu Á

Mỹ và Phương Tây đã ủng hộ các lực lượng chống cộng ở Indonesia trong chiến dịch thảm sát hơn 500.000 người cộng sản từ năm 1965 đến năm 1966..[87][88]. Một bản báo cáo của CIA năm 1968 đã xếp cuộc thanh trừng chống Cộng này vào một trong số những vụ thảm sát đẫm máu nhất thế kỷ 20 [89].

Vào năm 1967, Mỹ ủng hộ Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày với các nước Ả Rập được Liên Xô hậu thuẫn. Kết thúc cuộc chiến, Israel đã mở rộng được đáng kể lãnh thổ của họ, giành được quyền kiểm soát vùng Đông Jerusalem, dải Gaza, bán đảo Sinai, Bờ Tây, và cao nguyên Golan. Tổng thể, lãnh thổ Israel rộng ra gấp ba, bao gồm cả một triệu người A Rập nay bị đặt dưới quyền kiểm soát của Israel trong các lãnh thổ mới chiếm được.

Châu Phi

Vào năm 1960, đã từng có một tổng thống cánh tả nổi bật ở GhanaKwame Nkrumah. Ông là thủ tướng dưới thời người Anh cai trị từ năm 1952 đến 1960, khi Ghana độc lập thì ông trở thành tổng thống. Đó là một người xã hội chủ nghĩa, với tư tưởng chống đế quốc, vào năm 1965 ông viết một cuốn sách lấy tên là "Chủ nghĩa thực dân mới: Giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc". Nkrumah bị CIA lật đổ trong cuộc đảo chính năm 1966. CIA đã phủ nhận mọi liên quan nhưng báo chí Anh đưa tin có 40 sĩ quan CIA hoạt động tại đại sứ quán Mỹ đã "cung cấp hào phóng cho các kẻ thù bí mật của tổng thống Nkrumah" và công việc của họ "đã được thưởng công đầy đủ". Cựu sĩ quan CIA John Stockwell tiết lộ thêm về vai trò quyết định của CIA trong vụ đảo chính với cuốn sách "In Search of Enemies".

Patrice Lumumba, chủ tịch đương nhiệm của phong trào Liên Phi Quốc gia Congo, đã tham gia vào quá trình giành độc lập của Congo và trở thành thủ tướng dân cử đầu tiên của Congo năm 1960. Ông ấy bị lật đổ trong cuộc đảo chính được CIA hậu thuẫn của Joseph-Desire Mobutu, vốn là chỉ huy quân đội. Mobutu giao Lumumba cho phe ly khai và lính đánh thuê được Bỉ hậu thuẫn. Lumumba đã chiến đấu ở tỉnh Katanga và bị bắn chết trong một vụ đọ súng với lính đánh thuê Bỉ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Lạnh http://archives.cbc.ca/IDD-1-71-274/conflict_war/c... http://www.moreorless.au.com/killers/ceausescu.htm... http://www.bookofhorriblethings.com/ http://www.brill.com/legacy-nuremberg-civilising-i... http://www.britannica.com/eb/article-32981 http://www.cnn.com/SPECIALS/cold.war/ http://www.conelrad.com/ http://www.emadbaghi.com/en/archives/000592.php#mo... http://books.google.com/books?id=SvSZHgAACAAJ&dq=D... http://books.google.com/books?id=WDgBBzWQ2DAC&pg=P...